KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH – NGUYỄN DU

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không chỉ là kiệt tác văn học của dân tộc Việt Nam mà còn là tấm gương phản chiếu sâu sắc thân phận con người trong xã hội phong kiến. Trong tác phẩm, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh đầy ám ảnh về nỗi cô đơn, đau khổ và sự bế tắc của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh Thúy Kiều trong những giây phút đau đớn nhất, đồng thời làm nổi bật giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Hãy cùng cô Diệu Thu đi vào tác phẩm này!

Mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên khung cảnh lầu Ngưng Bích bằng những nét chấm phá cô đọng nhưng đầy ám ảnh. “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”, cảnh vật hiện lên rộng lớn, bao la nhưng hoàn toàn hoang vắng, lạnh lẽo. Từ “khóa xuân” không chỉ là hình ảnh thực tế, mô tả Kiều bị giam lỏng, mà còn là ẩn dụ cho tuổi xuân tươi đẹp của nàng đang bị phí hoài trong cảnh tù túng. Khung cảnh thiên nhiên được Nguyễn Du tiếp tục khắc họa qua những hình ảnh: “Bốn bề bát ngát xa trông, cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.” Không gian ấy tuy mênh mông nhưng trống trải, không có sự sống, chỉ càng làm nổi bật sự cô độc của Kiều. Phép đối trong hai câu thơ gợi lên cảm giác bế tắc: cảnh rộng lớn nhưng không lối thoát, như chính cuộc đời Kiều lúc này. Cảnh và tình hòa quyện, Nguyễn Du đã tài tình đưa tâm trạng cô đơn, lạc lõng của nhân vật vào từng nét miêu tả cảnh vật.

Nỗi cô đơn của Kiều càng trở nên sâu sắc hơn khi được diễn tả qua chi tiết “mây sớm đèn khuya”. Kiều không có ai bầu bạn, ngày ngày chỉ làm bạn với thiên nhiên vô tri. Khoảng thời gian dài đằng đẵng của cảnh “sớm – khuya” như dồn nén thêm nỗi buồn triền miên, dai dẳng trong lòng nàng. Câu thơ “Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng” là minh chứng rõ rệt cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Cảnh và tình không tách rời, nỗi buồn trong lòng Kiều đã thấm vào từng cảnh vật xung quanh, khiến mọi thứ đều nhuốm màu tang thương.

Đặc biệt, qua những dòng thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã miêu tả nỗi nhớ triền miên của Kiều – nỗi nhớ đã gặm nhấm tâm hồn nàng trong những ngày bị giam cầm. Nàng nhớ Kim Trọng, người yêu từng nguyện ước trăm năm với mình. “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, tin sương luống những rày trông mai chờ”, nỗi nhớ ấy vừa đẹp đẽ, vừa đau đớn. Hình ảnh “chén đồng” gợi lại lời thề nguyền son sắt giữa nàng và Kim Trọng, nhưng giờ đây, Kiều chỉ biết “rày trông mai chờ” trong vô vọng, không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại người xưa. Nỗi nhớ Kim Trọng là nỗi nhớ của tình yêu dang dở, khắc khoải, luôn ám ảnh tâm trí Kiều, khiến nàng không khỏi day dứt.

Không chỉ nhớ người yêu, Thúy Kiều còn nhớ cha mẹ già yếu đang phải sống trong cảnh khốn khó. “Xót người tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”, những lời thơ như lưỡi dao cứa vào lòng người đọc. Tâm trạng Thúy Kiều hiện lên vừa thương, vừa tủi: nàng hối hận vì không thể làm tròn chữ hiếu, xót xa khi nghĩ đến cha mẹ ngày ngày mỏi mòn trông ngóng con gái trở về. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng những hình ảnh đầy ám ảnh như “sân Lai cách mấy nắng mưa, có khi gốc tử đã vừa người ôm” để diễn tả nỗi lo sợ mất mát của Kiều. Nỗi nhớ ấy không chỉ gợi lên tấm lòng hiếu thảo của nàng mà còn làm nổi bật bi kịch gia đình tan nát mà Kiều đang phải gánh chịu.

Đỉnh cao nghệ thuật của đoạn trích là bốn cặp câu lục bát cuối cùng, miêu tả những dự cảm bất an của Kiều về tương lai. Điệp ngữ “buồn trông” mở đầu mỗi cặp câu tạo nên nhịp điệu trùng điệp, nhấn mạnh nỗi buồn dâng trào, không thể nguôi ngoai trong lòng nàng. Tâm trạng Kiều như được phản chiếu qua từng hình ảnh thiên nhiên: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.” Hình ảnh “thuyền ai” mờ nhạt trong không gian xa xôi gợi cảm giác bất định, vô vọng. Đặc biệt, “hoa trôi man mác biết là về đâu” vừa là hình ảnh thiên nhiên, vừa là ẩn dụ cho thân phận bấp bênh, trôi nổi của Kiều trong xã hội phong kiến bất công. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu, gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng ầm ầm ở cuối đoạn thơ như một lời dự báo đầy ám ảnh về những sóng gió mà Kiều sắp phải đối mặt.

Qua đoạn trích, Nguyễn Du không chỉ khắc họa nỗi đau của Thúy Kiều mà còn tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, nơi quyền lực và tiền bạc có thể chà đạp lên thân phận con người. Đồng thời, đoạn thơ cũng làm nổi bật tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du – một trái tim luôn đau đáu với nỗi đau của người phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ tài sắc nhưng phải chịu cảnh bạc mệnh.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh nội tâm đặc sắc, nơi Nguyễn Du thể hiện tài năng bậc thầy trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình và miêu tả tâm trạng nhân vật. Thúy Kiều hiện lên không chỉ là một nạn nhân của xã hội phong kiến bất công mà còn là biểu tượng cho số phận bi thương của người phụ nữ trong chế độ cũ. Qua đó, Nguyễn Du đã để lại cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về giá trị nhân văn và sức mạnh của tình yêu thương trong cuộc sống.

 

Cảm ơn các em đã dành thời gian đón đọc bài viết của cô Diệu Thu. Hi vọng rằng những kiến thức này sẽ giúp các em thêm yêu thích môn văn hơn. Nếu thấy bài viết ý nghĩa và hữu ích, đừng quên chia sẻ với bạn bè để mọi người cùng học hỏi và khám phá thêm những điều thú vị từ văn học nhé!

 

Trung tâm luyện thi văn cô Diệu Thu hiện có các lớp văn Online từ lớp 6 đến lớp 12, được giảng dạy bởi đội ngũ Tiến sĩ, Thạc sĩ và Giáo viên giỏi với nhiều năm kinh nghiệm. Phương pháp giảng dạy độc đáo bằng công thức sẽ giúp các em dễ dàng nắm vững kiến thức và yêu thích môn văn hơn. Rất mong được đồng hành cùng các em trên hành trình học tập và phát triển kỹ năng văn học!

 

Liên hệ: Cô giáo Lê Trần Diệu Thu – Thạc sĩ lý luận và Phương pháp giảng dạy Bộ môn Ngữ văn – 0973602995

#nguvan #vanhoc #hocvanbangcongthuc #cogiaodieuthu

Website: https://letrandieuthu.com/