TÍNH NHÂN VĂN VÀ NHÂN ĐẠO

Văn học không chỉ là tiếng nói của cảm xúc, mà còn là tiếng nói của tư tưởng, của lương tri và của nhân cách con người. Từ ngàn đời nay, văn học luôn gắn bó với cuộc sống, phản ánh những khổ đau, niềm vui, bi kịch và khát vọng của con người trong những thời khắc quan trọng của lịch sử cũng như trong đời sống thường nhật. Trong hành trình đồng hành cùng con người ấy, hai phẩm chất quan trọng làm nên giá trị bền vững của văn học chính là tính nhân đạotính nhân văn. Tuy gần gũi và thường được sử dụng thay thế nhau, nhưng hai khái niệm này vẫn có những điểm phân biệt tinh tế, đòi hỏi người đọc văn cần có cái nhìn thấu đáo và sâu sắc để cảm nhận trọn vẹn giá trị tư tưởng của tác phẩm. Hãy cùng cô Diệu Thu tìm hiểu trong bài viết này.

Trong kho tàng văn học dân tộc và thế giới, có lẽ ít có khái niệm nào vừa phổ biến vừa gây tranh luận trong cách hiểu như tính nhân đạotính nhân văn. Hai khái niệm này đều thể hiện tinh thần yêu thương con người, hướng đến những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc một tác phẩm văn học, người đọc cần nhận diện rõ ràng ranh giới và bản chất giữa tính nhân đạotính nhân văn, từ đó khám phá trọn vẹn giá trị tư tưởng và thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.

Tính nhân đạo trong văn học trước hết là sự cảm thông sâu sắc với những số phận đau khổ, là thái độ lên án cái ác, bất công và đồng thời thể hiện khát vọng đấu tranh vì một cuộc sống công bằng hơn. Nhân đạo mang trong nó hơi thở của thực tế xã hội, gắn liền với hoàn cảnh cụ thể, với tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột hoặc bị đẩy xuống đáy cùng của xã hội. Nhà văn có tư tưởng nhân đạo là người nhìn thấy đau khổ của con người không chỉ bằng đôi mắt mà bằng cả trái tim, là người lên tiếng thay cho những tiếng nói bị lãng quên, bị vùi dập.

Chẳng hạn, trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tư tưởng nhân đạo thể hiện ở nỗi xót xa cho số phận oan khuất của Vũ Nương, người phụ nữ hiền thục, nết na nhưng bị chồng nghi oan, phải trầm mình dưới sông để giữ gìn danh dự. Nguyễn Dữ không chỉ kể một câu chuyện buồn mà còn gửi gắm trong đó nỗi day dứt, lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến đầy định kiến, nơi mà người phụ nữ không có tiếng nói, dễ dàng trở thành nạn nhân của những hiểu lầm và bất công. Tư tưởng ấy mang tính nhân đạo, vì nó gắn liền với thực tế lịch sử và lên án một hiện thực phi lý cần phải thay đổi.

Trong khi đó, tính nhân văn lại vượt lên khỏi những hoàn cảnh cụ thể để nhấn mạnh đến bản chất tốt đẹp vốn có của con người, đề cao phẩm giá con người, khẳng định quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Tính nhân văn đặt con người ở trung tâm của vũ trụ, tôn trọng tự do, khơi dậy tiềm năng hướng thiện trong mỗi cá nhân. Nếu nhân đạo thiên về lòng trắc ẩn trước nỗi đau, thì nhân văn thiên về sự tôn vinh con người như một giá trị cao quý nhất.

Một ví dụ tiêu biểu cho tư tưởng nhân văn“Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Bên cạnh những giọt nước mắt xót thương cho thân phận nàng Kiều (thuộc phạm vi nhân đạo), Nguyễn Du còn gửi gắm một cái nhìn sâu xa hơn , ông trân trọng tài năng, nhan sắc, đức hạnh của nàng Kiều, đề cao chữ “tình” như bản chất cao đẹp nhất của con người. Dù bị vùi dập, bị rơi vào vòng xoáy định mệnh, nàng Kiều vẫn giữ được nhân cách cao đẹp, vẫn lựa chọn tha thứ thay vì trả thù. Cái nhìn ấy thể hiện một niềm tin sâu xa vào con người, vào khả năng tự cứu rỗi của con người bằng chính phẩm giá và tình yêu thương,  đó chính là nhân văn.

Từ sự đối chiếu trên, ta có thể tóm gọn:

  • Tính nhân đạosự phản ánh và lên án thực trạng bất công, là tiếng nói bênh vực những người yếu thế.
  • Tính nhân vănsự tôn vinh phẩm chất con người, là khát vọng vươn tới chân – thiện – mỹ trong đời sống tinh thần.

Dẫu có sự khác biệt trong trọng tâm, nhưng giữa nhân đạo và nhân văn vẫn có sự gắn bó chặt chẽ. Một tác phẩm lớn thường mang cả hai yếu tố: vừa biết xót thương những nỗi đau của kiếp người, vừa nâng niu và đánh thức những gì đẹp đẽ trong con người. Chỉ khi nhà văn có cái nhìn nhân đạo và một trái tim nhân văn, tác phẩm của họ mới có thể sống lâu trong lòng người đọc.

Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong “Lão Hạc” của Nam Cao. Ông viết về một lão nông nghèo, vì quá nghèo mà phải bán cả con chó thân thiết để dành tiền lo hậu sự cho mình. Tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân đạo khi lên án xã hội thực dân đẩy người nông dân vào bước đường cùng. Nhưng đồng thời, Nam Cao cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn khi khắc họa nhân cách trong sáng, lòng tự trọng và tình yêu thương của Lão Hạc, một con người nghèo về vật chất nhưng giàu có về tâm hồn.

Vì thế, tính nhân đạonhân văn là hai giá trị cốt lõi của văn học chân chính. Một tác phẩm dù trau chuốt đến đâu, nếu thiếu đi cái nhìn nhân đạo, thiếu đi trái tim nhân văn, sẽ trở nên lạnh lùng, vô hồn. Ngược lại, một tác phẩm giản dị, thậm chí thô mộc, nếu biết lay động lòng trắc ẩn và khơi dậy niềm tin vào con người, vẫn sẽ trở thành bất tử. Bởi cuối cùng, điều khiến văn học tồn tại và có giá trị chính là khả năng chạm vào phần nhân bản nhất trong tâm hồn con người, nơi luôn hướng về ánh sáng, tình yêu thương và khát vọng sống có ý nghĩa.

Cảm ơn các em đã dành thời gian đón đọc bài viết của cô Diệu Thu. Hi vọng rằng những kiến thức này sẽ giúp các em thêm yêu thích môn văn hơn. Nếu thấy bài viết ý nghĩa và hữu ích, đừng quên chia sẻ với bạn bè để mọi người cùng học hỏi và khám phá thêm những điều thú vị từ văn học nhé!

 

Trung tâm luyện thi văn cô Diệu Thu hiện có các lớp văn Online từ lớp 6 đến lớp 12, được giảng dạy bởi đội ngũ Tiến sĩ, Thạc sĩ và Giáo viên giỏi với nhiều năm kinh nghiệm. Phương pháp giảng dạy độc đáo bằng công thức sẽ giúp các em dễ dàng nắm vững kiến thức và yêu thích môn văn hơn. Rất mong được đồng hành cùng các em trên hành trình học tập và phát triển kỹ năng văn học!

 

Liên hệ: Cô giáo Lê Trần Diệu Thu – Thạc sĩ lý luận và Phương pháp giảng dạy Bộ môn Ngữ văn – 0973602995

#nguvan #vanhoc #hocvanbangcongthuc #cogiaodieuthu

Website: https://letrandieuthu.com/