Trong thế giới rộng lớn và phức tạp này, nơi con người ngày càng bị vây quanh bởi những cỗ máy, những bảng số, những chuẩn mực vô hồn, thì nghệ thuật vẫn hiện lên như một nhịp thở khác, một nhịp thở đầy tính người. Nguyên Ngọc đã từng viết rằng, “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.” Câu nói ấy không chỉ mang tinh thần của một nhà văn, mà còn là tiếng nói của một con người luôn tha thiết với phẩm giá nhân văn, với những điều sâu xa nhất thuộc về con người. Bởi trong tận cùng bản chất, nghệ thuật chưa bao giờ là tấm gương phản chiếu sự hoàn hảo, mà là cánh tay đưa ra cho con người giữa dòng đời nghiệt ngã, giúp họ giữ lại phần trong sáng nhất, cao đẹp nhất của chính mình. Hãy cùng cô Diệu Thu đi vào bài viết này.
Khi nói nghệ thuật là “sự vươn tới”, Nguyên Ngọc đang nói đến khát vọng không ngừng của nghệ thuật trong việc chạm tới cái cao cả, cái tốt đẹp, cái nên có chứ không phải cái đang có. Nghệ thuật không phải là sự phản ánh giản đơn của hiện thực, mà là hành trình vượt thoát khỏi cái tầm thường, cái vụn vặt, cái bi lụy để khẳng định những giá trị lý tưởng. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du không đơn thuần kể về cuộc đời đau khổ của Thúy Kiều, mà ông đã vươn tới một tiếng nói nhân đạo sâu sắc, gửi gắm nỗi đau thân phận, sự dằn vặt của cái đẹp giữa bùn lầy xã hội, và hơn hết là khát vọng giải thoát cho con người. Tương tự, khi Tố Hữu viết về bà má Hậu Giang, hay hình ảnh chị Sứ trong “Hòn Đất”, ông không chỉ dựng lại những con người cụ thể, mà đang vươn tới biểu tượng của lòng yêu nước, lòng căm thù giặc, và tinh thần bất khuất của cả một dân tộc.
Thế nhưng, nghệ thuật không chỉ vươn tới cái cao cả một cách mơ hồ, mà còn luôn hướng về con người cụ thể, sống động, đầy bất toàn nhưng biết yêu thương. Cái hướng về ấy là hướng về những số phận bị bỏ lại bên lề cuộc sống, những tiếng khóc không ai nghe, những nỗi cô đơn lặng lẽ. Khi Nam Cao viết về Chí Phèo, ông đâu có làm thơ cho cái ác, mà ngược lại, ông đang hướng nghệ thuật về phần người còn sót lại trong một kẻ tưởng như chỉ là con quỷ. Tiếng kêu “Ai cho tao lương thiện?” là tiếng vọng tuyệt vọng của con người bị tước mất quyền làm người, và chỉ nghệ thuật, một thứ nghệ thuật biết yêu thương, mới đủ sức nghe, đủ sức thấu hiểu và giữ lại tiếng vọng ấy trong trái tim người đọc. Hay khi Kim Lân để Tràng và người vợ nhặt nắm tay nhau đi về phía bóng tối, ông không chỉ đang dựng lại hiện thực nạn đói, mà còn đang hướng ánh sáng của nghệ thuật vào những chỗ sâu thẳm nhất trong trái tim con người, nơi tình yêu thương vẫn âm thầm nảy mầm, ngay cả khi sự sống đã cạn kiệt.
Sâu xa hơn tất cả, nghệ thuật là sự níu giữ tính người cho con người. Thế kỷ hai mươi đi qua với nhiều thành tựu lớn lao về khoa học, kỹ thuật, nhưng cũng là thế kỷ của chiến tranh, diệt chủng, hủy diệt con người bằng bom đạn và bằng cả sự lặng câm. Trong bối cảnh đó, nghệ thuật trở thành một thứ tàn lửa quý giá giữ lại phần người khi thế giới có nguy cơ đánh mất nó. Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người ta dễ rung động trước vẻ đẹp bảng lảng của chiếc thuyền nghệ thuật, nhưng điều lay động sâu xa nhất lại nằm ở cái nhìn xuyên thấu của nhân vật Phùng, cái nhìn giúp anh nhận ra sự bất toàn của cuộc sống, và cũng từ đó, thôi thúc người nghệ sĩ không được phép chỉ mơ màng trong cái đẹp, mà phải gắn cái đẹp với cái thật, với nỗi đau, với lẽ công bằng. Trong chiến tranh hay hòa bình, nghệ thuật vẫn luôn là thứ giữ lại phần người, phần biết đau, biết yêu, biết phản kháng trong mỗi cá nhân.
Người ta có thể sống thiếu nhiều thứ, nhưng không thể sống thiếu niềm tin vào cái đẹp, niềm tin vào nhân tính. Và nghệ thuật, hơn bất kỳ hình thức tư tưởng nào, chính là con đường kiên định nhất gìn giữ niềm tin ấy. Đã bao lần nhân loại trải qua chiến tranh, tù ngục, đói nghèo, và mỗi lần như thế, không phải súng đạn, không phải khẩu hiệu, mà chính là những bài thơ viết trong tù, những bản nhạc nơi chiến hào, những cuốn tiểu thuyết được chuyền tay nhau trong bóng tối, đã níu con người ở lại với con người.
Nguyên Ngọc đã viết bằng tất cả sự đau đáu và yêu thương, không chỉ về nghệ thuật, mà còn về sứ mệnh sống của mỗi người nghệ sĩ, mỗi người đọc. Trong một thế giới đang ngày càng bị chi phối bởi tốc độ, bởi công nghệ, bởi những giá trị thực dụng và lạnh lùng, lời nhắc của ông lại càng vang lên da diết. Bởi nếu một ngày nào đó, nghệ thuật chỉ còn là món trang trí, là thứ giải trí tạm bợ, không còn vươn tới, không còn hướng về, không còn níu giữ gì nữa, thì rất có thể, chính con người cũng sẽ đánh mất điều quý giá nhất, ấy là nhân tính.
Vì vậy, nếu được hỏi rằng con người cần gì để sống cho ra người, có lẽ, một trong những câu trả lời sâu sắc nhất chính là: cần nghệ thuật. Cần một câu thơ cho lòng lắng lại, một bức tranh để suy ngẫm, một bản nhạc để tim mình mềm đi. Cần nghệ thuật không phải vì nghệ thuật, mà vì con người. Và bởi thế, nghệ thuật không chỉ là cái đẹp, mà là một phần của đạo sống, một phần của nhân cách. Và nếu còn nghệ thuật đúng nghĩa, thì dù có bão tố ngoài kia, con người vẫn còn nơi để trở về.
Cảm ơn các em đã dành thời gian đón đọc bài viết của cô Diệu Thu. Hi vọng rằng những kiến thức này sẽ giúp các em thêm yêu thích môn văn hơn. Nếu thấy bài viết ý nghĩa và hữu ích, đừng quên chia sẻ với bạn bè để mọi người cùng học hỏi và khám phá thêm những điều thú vị từ văn học nhé!
Trung tâm luyện thi văn cô Diệu Thu hiện có các lớp văn Online từ lớp 6 đến lớp 12, được giảng dạy bởi đội ngũ Tiến sĩ, Thạc sĩ và Giáo viên giỏi với nhiều năm kinh nghiệm. Phương pháp giảng dạy độc đáo bằng công thức sẽ giúp các em dễ dàng nắm vững kiến thức và yêu thích môn văn hơn. Rất mong được đồng hành cùng các em trên hành trình học tập và phát triển kỹ năng văn học!
Liên hệ: Cô giáo Lê Trần Diệu Thu – Thạc sĩ lý luận và Phương pháp giảng dạy Bộ môn Ngữ văn – 0973602995
#nguvan #vanhoc #hocvanbangcongthuc #cogiaodieuthu
Website: https://letrandieuthu.com/