MỘT BỮA NO – NAM CAO

📖 KHI CÁI ĐÓI HÓA THÀNH TIẾNG KÊU CỦA LƯƠNG TRI CON NGƯỜI QUA TRUYỆN NGẮN “MỘT BỮA NO” CỦA NAM CAO

       Lược trích: Bà lão nuôi người con trai nhưng không may nó chết. Bà nuôi con của con trai bảy năm trời, đến năm nó mười hau, bà cho đi làm con nuôi người ta. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, bà hết sạch tiền, ngày càng đau yếu. Bà phải đi xin ăn ngoài chợ, nhưng xin mãi cũng không ai cho nữa. Bà đã phải nhịn đói mấy hôm. Thế là bà nghĩ ra một cách là đến nhà nhận nuôi đứa cháu.

  (1) […] Cứ đi được một quãng ngắn, bà lại phải ngồi xuống nghi. Nghỉ một lúc lâu, trống ngực bà mới hết đánh, tai bà bớt lùng bùng, mắt bà bớt tối tăm, người tàm tạm thôi quay quắt. Bà nghỉ tất cả năm sáu quãng. Thành thử đến tận non trưa, bà mới tới nhà mình định tới: ấy là nhà bà phó Thụ, nuôi cái đĩ. Bà quen gọi như vậy, ngay từ khi nó còn nhỏ; cái đĩ tức là đứa con của anh con trai đã cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì còn lại. Anh con trai chẳng còn phải khổ sở như bà ngày nay. […]

(2) Bà phó chẳng nói nửa lời, bê lấy bát cơm ăn. Mặt bà vẫn hằm hằm. Lũ con gái, con nuôi, con ở, biết hiệu, vội vàng cũng làm theo. Chậm một tí, bà chửi cho phải biết! Có khi bà hắt cả bát cơm vào mặt. Bà lão nhìn vòng quanh một lượt, rồi cũng cất bát cơm lên:

– Mời bà phó…

Nhưng bà vừa mới hả mồm ra thì bà phó đã cau mặt quát:

– Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!

       (3) Bà lão vội vàng ăn ngay. Nhưng họ ăn nhanh quá. Mọi người đều lặng lẽ, cắm cúi, mải mốt. Đôi đũa này lên lại có đôi khác xuống. Liên tiếp luôn như vậy. Cứ tăm tắp tăm tắp. Tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào bát mắm. Lập cập quá, bà đánh rơi cả mắm ra ngoài bát. Bà phó lại cau mặt, gắt:

– Sẻ riêng cho bà ấy một bát mắm, để ra cạnh mâm cho bà ấy!

  Một cô vội làm ngay. Từ đấy, bà lão dễ xoay xở hơn một chút. Nhưng bà mới ăn chưa hết hai lượt cơm thì bà phó đã quăng bát đũa xuống đất. Chỉ một thoáng sau, mọi người khác cũng thôi. Họ thôi gần đều một lượt. In như bà mẹ ra hiệu cho họ vậy. […]

Chỉ còn mình bà lão ngồi ăn với bà phó Thụ ngồi lại để lườm với nguýt. Nhưng bà lão còn thấy đói. Còn cơm mà thôi ăn thì tiếc. Vả đã đi ăn chực thì còn danh giá gì mà làm khách. Bà cứ ăn như không biết gì.

  Đến khi bà đã tạm no, thì cơm vừa hết. Chỉ còn một ít bám dưới đáy và chung quanh nồi. Bà vẫn tiếc. Bà kéo cái nồi vào lòng, nhìn, và bảo con bé cháu:

– Còn có mấy hột để nó khô đi mất. Tao vét cho mày ăn nốt đi kẻo hoài, đĩ nhé?

– Khô mặc kệ nó! Bà có ăn được hết thì ăn đi, đừng bảo nó. Nó không ăn vào đâu được nữa. Ăn cho nó nứt bụng ra thì ăn làm gì?

   Bà phó vội gắt gỏng bảo thế. Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm.

  (4) Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!

  (5) Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch.

  (Phần cuối truyện: Đến nửa đêm, bà lão đau bụng, sau đó đi tả, đi lị hơn một tháng rồi cuối cùng không qua khỏi. Bà lão đã chết.)

                                                    (Trích Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, 2010)

* Chú thích: Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất bản Thời đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm trước cách mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, không ngừng chịu sự hoành hành của giặc ngoại xâm ta còn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.

 

📖 Từ bao đời nay, văn chương luôn là tiếng nói thức tỉnh lương tri con người. Giữa những thời buổi tối tăm, nhà văn vẫn là người cầm đuốc đi trước, soi rọi vào những kiếp đời bị bỏ quên, lay động lòng người bằng nỗi đau nhân thế. Trong nền văn học Việt Nam hiện thực trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là một trong những ngòi bút như thế, một nghệ sĩ có trái tim lớn luôn trăn trở trước thân phận con người bị chà đạp bởi nghèo đói và bất công. Nếu “Chí Phèo” là bản cáo trạng về xã hội đã cướp đi quyền làm người thì “Một bữa no” lại là khúc bi ai về cái đói, kẻ thù tàn nhẫn hủy hoại cả thể xác lẫn nhân phẩm con người.

📖 Nam Cao (1915 – 1951) tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, nay thuộc Hà Nam. Ông là cây bút tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán, đồng thời là nhà văn có tư tưởng nhân đạo sâu sắc bậc nhất. Ngòi bút của Nam Cao không chạy theo cái hào nhoáng bề ngoài mà luôn hướng đến “con người trong con người”, những nỗi đau thầm lặng và khát vọng sống nhỏ bé mà mãnh liệt của những phận người bị cuộc đời vùi dập. Truyện ngắn “Một bữa no” được sáng tác năm 1943, trong thời điểm đất nước rơi vào cảnh nghèo đói và chiến tranh. Tác phẩm là bức tranh hiện thực trần trụi, đồng thời cũng là tiếng khóc thương cho những số phận khổ đau bị xã hội bỏ quên.

📖 Bà lão trong truyện là một con người cùng cực. Cả đời bà lận đận, nuôi con rồi nuôi cháu, đến khi con chết, cháu được người khác nhận nuôi, bà chỉ còn lại một mình giữa cơn đói và bệnh tật. Khi bệnh nặng không ai giúp đỡ, tiền thuốc thang đã cạn, bà phải lê lết ra chợ xin ăn. Nhưng đói quá lâu, người ta cũng khinh bỉ, dửng dưng, chẳng ai bố thí nữa. Trong bước đường cùng, bà chỉ còn một hi vọng nhỏ nhoi, đó là đến nhà người đã nuôi đứa cháu của mình, mong được một bữa cơm. Chỉ bấy nhiêu thôi, nhưng với người đói triền miên, “một bữa no” là cả một giấc mơ xa xỉ. Nam Cao đã dùng những dòng văn chân thực và xót xa để khắc họa hình ảnh một bà lão yếu đuối, tiều tụy, lê từng bước nặng nề, phải “ngồi nghỉ năm sáu quãng” mới tới nơi. Cái đói và cái khổ không chỉ làm mòn sức lực mà còn bào mòn nhân phẩm con người.

📖 Cảnh bà lão được ăn cơm ở nhà bà phó Thụ là đoạn văn đặc sắc, vừa chân thực vừa bi thương. Cả nhà bà phó ăn cơm trong không khí căng thẳng, lạnh lùng. Không một lời chào hỏi, không một ánh nhìn thân thiện. Bà lão, người từng là mẹ chồng của bà phó, giờ đây ngồi lặng lẽ như một kẻ ăn nhờ ở đậu. Khi bà lễ phép “mời bà phó”, liền bị quát “Thôi, bà ăn đi! Đừng mời!”. Câu nói tưởng đơn giản mà chứa đầy sự khinh rẻ. Bữa cơm ấy, với người khác là chuyện thường ngày, nhưng với bà lão lại là “bữa cuối của đời người”. Bà ăn vội vàng, run rẩy, vụng về. Cái nghèo khiến bà không còn biết phép tắc, không còn giữ được lòng tự trọng. Nam Cao đã miêu tả thật tỉ mỉ những cử chỉ ấy, đôi tay “lờ rờ”, “đánh rơi cả mắm ra ngoài bát”, “cạo nồi sồn sột”, những hành động vừa tội nghiệp vừa đau đớn. Người đọc vừa thương vừa xót, bởi đằng sau sự tham ăn là cả một kiếp người bị cái đói hành hạ đến mức bản năng sinh tồn lấn át cả lòng tự trọng.

📖 Khi đã ăn no, bà lão mới nhận ra rằng chính cái no ấy lại khiến bà thêm khổ. Bà “nới thắt lưng ra cho dễ thở”, “ruột gan xộn xạo”, “mồ hôi toát đầm đìa”, “muốn lăn kềnh ra nghỉ”. Nam Cao đã khắc họa thật ám ảnh bi kịch của con người: đói cũng khổ mà no cũng khổ, cái no này không phải là hạnh phúc mà là khởi đầu của cái chết. Thật trớ trêu thay, một bữa cơm mà lẽ ra phải cứu sống con người lại là “án tử” của họ. Bà lão chết vì no, một cái chết quá đỗi phi lí nhưng lại hoàn toàn có thật trong đời sống đói nghèo của người nông dân trước cách mạng. Cái chết ấy không chỉ khép lại cuộc đời một người già khổ mà còn mở ra nỗi ám ảnh lớn về thân phận con người dưới đáy xã hội.

📖 Bằng nghệ thuật hiện thực sắc sảo, Nam Cao đã dựng nên một bức tranh xã hội u tối, nơi con người bị cái đói làm mất đi nhân tính, bị nghèo đói chà đạp đến tàn tạ cả hình hài lẫn tâm hồn. Nhưng điều khiến “Một bữa no” không chỉ là tiếng tố cáo mà còn là tiếng khóc thương sâu thẳm. Nam Cao viết bằng tất cả lòng trắc ẩn. Ông không cười chê, không phán xét bà lão mà nhìn bà bằng đôi mắt thương xót của một người thấu hiểu nỗi đau người khác. Ngòi bút của ông vừa lạnh lùng ghi chép hiện thực, vừa âm ỉ một ngọn lửa nhân đạo, thứ làm nên giá trị bền vững của văn chương Nam Cao.

📖 Kết thúc truyện, bà lão chết sau cơn no nhưng người đọc không thể dứt khỏi cảm giác nghẹn ngào. Cái chết ấy không chỉ là số phận riêng của một con người mà là lời cáo buộc xã hội cũ, xã hội đã để con người chết vì đói, chết vì miếng ăn. “Một bữa no” vì thế trở thành bản cáo trạng đẫm nước mắt, đồng thời cũng là khúc bi ca về tình người đã mất trong cơn đói khát triền miên. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, ngôn ngữ giản dị mà thấm thía, Nam Cao đã biến một câu chuyện nhỏ thành một tác phẩm lớn, nơi người đọc không chỉ thấy cái đói của thể xác mà còn thấu hiểu nỗi đói của nhân phẩm, lòng thương yêu và sự sẻ chia. “Một bữa no” vì thế là minh chứng cho tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của Nam Cao, nhà văn của những kiếp người bé nhỏ, lam lũ mà vẫn ánh lên nhân tính giữa cơn tàn khốc của đời.

Nguồn ảnh minh họa: Sưu tầm

———————————-

Học Văn Bằng Công Thức Cùng Cô Diệu Thu – Học chuẩn, thi chuẩn

Hotline: 0833.873.089

Địa chỉ: Ngõ 123, Thuỵ Phương, Bắc Từ Liêm, Hà Nội

Website: https://letrandieuthu.com    

 

#hocvanbangcongthuc #cogiaodieuthu