MÂY TRẮNG CÒN BAY – BẢO NINH

☁️ KHOẢNG LẶNG NHÂN VĂN GIỮA BẦU TRỜI HẬU CHIẾN QUA TRUYỆN NGẮN “MÂY TRẮNG CÒN BAY” CỦA BẢO NINH

Máy bay cất cánh trong mưa. Tiếng càng bánh xe gấp lại có vẻ mạnh hơn bình thường dội độ rung vào thân máy bay. Tôi tiếc là đã không nghe lời vợ. Đáng lý nên trả vé, đừng theo chuyến này. Ngày xấu, giờ xấu, thời tiết xấu. Máy bay hẫng một cái như hụt bước. Tay vận complet ngồi bên cạnh tôi mặt nhợt đi, mắt nhắm nghiền, cặp môi run run. Tôi bấu chặt các ngón tay vào thành ghế. Con người tôi bé tí hin treo trên vực sâu đang càng lúc càng sâu thẳm.

– Mây ngay ngoài, các bác kìa! – bà cụ ngồi ở ghế trong cùng, kề cửa sổ, thốt kêu lên.

Chiếc TU đã lấy được độ cao cần thiết, bắt đầu bay bằng. Hàng chữ điện “Cài thắt lưng an toàn” đã được tắt đi. Nhưng ngoài cửa sổ vẫn cuồn cuộn mây.

– Mây cận quá, bác nhỉ, với tay ra là với được – Bà cụ nói – Y thể cây lá ngoài vườn.

Tay vận complet nhấc mi mắt lên. Môi y mím chặt, vẻ căng thẳng đổi thành quàu quạu.

– Vậy mà sao nhiều người họ kháo là tàu bay trỗi cao được hơn mây bác nhỉ?

Tay nọ làm thinh.

– Chả biết đâu trời đâu đất thế này biết lối nào mà về bến, thưa các bác?

Không được trả lời, bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây. Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế. Khi cô tiếp viên đẩy xe đưa bữa điểm tâm đến, bà không muốn nhận khay đồ ăn. Bà bảo cơm nước lạ kiểu chẳng đũa bát gì chẳng quen, mấy lại đã ăn no bụng hồi sớm, mấy lại cũng thực tình là già chẳng có lắm tiền. Cô gái ân cần giải thích để bà cụ yên tâm rằng giá của suất ăn này đã được tính gộp trong tiền vé.

– Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc – bà cụ nói – Vậy mà lúc biếu già tấm vé các chú không quân cùng đơn vị với con trai già ngày nọ bảo là tốn có trăm ngàn. Các chú ấy cho già thì có, chứ còn tính ở quê đừng nói triệu với trăm ngàn, ngàn với trăm cũng khó.

Bà cụ hạ chiếc bàn gấp xuống song không bày bữa ăn lên đấy. Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì. Lúc người ta mang đồ uống đến, bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc. Bà hỏi cô tiếp viên:

– Đã sắp đến sông Bến Hải chưa con?

– Dạ thưa – Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay – Còn chừng dăm phút nữa ạ. Nhưng thưa cụ vì chúng ta bay trên biển nên không ngang qua sông mà sẽ chỉ ngang qua vùng trời vĩ tuyến 17.

– Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé, cho thoáng.

– Ấy chết, mở thế nào được ạ. Cô gái bật cười.

Ngoài cửa sổ nắng loé lên, cánh máy bay lấp lánh, nhưng chỉ trong chốc lát. Trên rất cao này, trời vẫn còn mây. Người tôi nôn nao như ngồi trên đu quay. Chưa chuyến nào thấy mệt như chuyến này. Có lẽ vì cơn bão đang hoành hành ở miền trung nên không trung đầy rẫy ổ gà. Máy bay chòng chành, dồi lắc, bên thân và dưới sàn khe khẽ phát ra những tiếng răng rắc như sắp rạn.

Tay vận complet xoè diêm châm thuốc. Là dân nghiện nhưng lúc này tôi thấy gai với khói. Lẽ ra y nên xuống phía dưới mà thả khí chứ chẳng nên phớt lờ hàng chữ “không hút thuốc” sáng nay trước mũi y như vậy, tôi sẽ uể oải thầm nghĩ, đậy tờ báo lên mặt và nhắm mắt lại. Giấc ngủ thiu thiu chầm chậm trườn tới.

– Làm cái gì vậy? Hả! Cái bà già này!

Tôi giật bắn mình. Tôi bị giằng khỏi giấc ngủ không phải vì tiếng quát, tay ngồi cạnh tôi không quát to tiếng, chỉ nạt, nạt khẽ thôi, đủ nghe. Nhưng âm hưởng của nỗi hoảng hốt và sự cục cằn trong giọng y như tát vào mặt người ta. Thận trọng, tôi liếc nhìn. Khói thuốc và cặp vai to đùng của y che khuất cả bà cụ già, cả ô cửa sổ.

– Này, cô kia, cô nhân viên! – Y sang trọng đứng dậy mắng – Tới mà nhìn! Đây là hàng không hay là cái xô bếp? Là phi cơ hay là cái miếu thờ thế này, hả?

– Van bác… – Bà cụ sợ sệt – Bác ơi, van bác… Chẳng là, bác ạ, bữa nay giỗ thằng cả nhà tôi. Non ba chục năm rồi, bác ơi, tôi mới lên được đến miền cháu khuất.

Tay nọ gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi. Bộ mặt hồng hào bừng bừng giận dữ và khinh miệt.

Bà cụ ngồi, lặng phắt, lưng còng xuống, hai bàn tay chắp lại, gầy guộc. Trên chiếc bàn gấp bày đĩa hoa cúng, nải chuối xanh, mấy cái phẩm oản và ba cây nhang cắm trong chiếc cốc thuỷ tinh đựng gạo. Một bức ảnh ép trong tấm kính cỡ bàn tay để dựng vào thành cốc.

Cô tiếp viên vội đi tới. Cô đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn.

Máy bay vươn mình nâng độ cao vượt qua trần mây. Sàn khoang dốc lên. Cái bàn thờ nhỏ bé bỏng của bà cụ già hơi nghiêng đi. Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một tờ báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ.

Khói nhang nhả nhè nhẹ, bốc lên dìu dịu, mờ mỏng trong bầu không khí lành lạnh của khoang máy bay. Những cây nhang trên trời thẳm toả hương thơm ngát. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.

                                                                     (Trích Bảo Ninh những truyện ngắn, NXB Trẻ, 2021)

Chú thích: Nhà văn Bảo Ninh sinh năm 1952 tại Nghệ An. Chiến tranh và hậu chiến là đề tài bao trùm trong sáng tác của ông. Nhà văn khai thác đề tài này từ hoài niệm, suy ngẫm của người trong cuộc khi bước ra khỏi cuộc chiến, từ đó cho thấy những khó khăn, phức tạp của đời sống cùng những tổn thất, mất mát nặng nề mà chiến tranh để lại. Mây trắng còn bay của Bảo Ninh là truyện ngắn viết sau năm 1975. Tác phẩm ra đời trong thời kì đất nước hoà bình và bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện.

 

☁️ Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những vết thương mà nó để lại trong tâm hồn con người vẫn còn đó, như những vết hằn không thể xóa nhòa trong dòng chảy lịch sử. Văn học, với thiên chức phản ánh và lưu giữ ký ức nhân loại, đã trở thành nơi lưu giữ những mất mát ấy, đồng thời gửi gắm khát vọng hòa bình và tình thương. Truyện ngắn “Mây trắng còn bay” của nhà văn Bảo Ninh là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho tinh thần ấy: từ một tình huống giản dị trên chuyến bay thường nhật, nhà văn đã khắc họa chiều sâu của những tổn thương hậu chiến, đồng thời gieo vào lòng người đọc nỗi trăn trở nhân sinh.

☁️ Bảo Ninh (1952), tên thật là Hoàng Ấu Phương, là một trong những cây bút hàng đầu của văn học Việt Nam đương đại về đề tài chiến tranh và hậu chiến. Với ngòi bút sắc sảo, thấm đẫm trải nghiệm của một người lính trở về, ông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ qua những tác phẩm như “Nỗi buồn chiến tranh”, “Trại bảy chú lùn” hay tập “Bảo Ninh – những truyện ngắn”. Trong đó, “Mây trắng còn bay” ra đời sau năm 1975, khi đất nước đã hòa bình nhưng những vết thương tinh thần vẫn còn hiện diện. Tác phẩm không chỉ khắc họa hiện thực hậu chiến mà còn đặt ra vấn đề sâu sắc về ký ức, sự tri ân và cách con người đối diện với quá khứ.

☁️ Điểm đặc sắc trước hết của “Mây trắng còn bay” là tình huống truyện độc đáo. Trên chuyến bay trong cơn mưa bão, nhân vật “tôi” và một số hành khách tình cờ chứng kiến cảnh một bà mẹ già bày một bàn thờ nhỏ ngay trên khoang máy bay để cúng giỗ người con trai – một phi công đã hi sinh gần ba mươi năm trước. Tình huống ấy vừa bất ngờ, vừa ám ảnh, bởi nó đặt nhân vật cũng như người đọc vào một không gian lửng chừng giữa trời, nơi quá khứ và hiện tại, sự sống và cái chết, nỗi riêng và nỗi chung giao thoa. Trong khoảnh khắc ấy, ký ức chiến tranh như hiện về, không ồn ào mà lặng lẽ, không dữ dội mà dai dẳng, tựa áng mây trắng vẫn còn bay mãi trong bầu trời hậu chiến.

☁️ Từ tình huống ấy, Bảo Ninh đã khắc họa chiều sâu nhân vật bằng bút pháp hiện thực xen lẫn chất trữ tình. Nhân vật bà cụ hiện lên với vóc dáng bé nhỏ, gầy guộc nhưng lại mang trong mình một sức nặng tinh thần khôn cùng: nỗi nhớ con triền miên và khát vọng được gặp con nơi “miền cháu khuất”. Hình ảnh bà ngồi lặng phắt, chắp tay gầy guộc trước chiếc bàn gấp bày đĩa hoa quả, bức ảnh và nén nhang… đã trở thành biểu tượng cho nỗi đau của hàng vạn bà mẹ Việt Nam sau chiến tranh. Đó không chỉ là nỗi đau riêng của một cá nhân, mà còn là vết thương chung của cả dân tộc.

☁️ Đặt nhân vật bà cụ bên cạnh những hành khách khác, đặc biệt là gã đàn ông mặc complet với thái độ lạnh lùng, cộc cằn, nhà văn đã tạo nên sự đối lập giàu ý nghĩa. Một bên là sự thiêng liêng, thủy chung, nhân hậu; một bên là sự vô cảm, thực dụng, thờ ơ với quá khứ. Sự đối lập ấy không chỉ làm nổi bật nhân cách người mẹ mà còn khơi gợi câu hỏi nhức nhối: sau chiến tranh, con người có còn đủ lòng trân trọng và sẻ chia với những hi sinh quá khứ? Qua đó, tác phẩm trở thành lời cảnh tỉnh đối với sự vô cảm – căn bệnh tinh thần dễ phát sinh trong nhịp sống hiện đại.

☁️ Nghệ thuật của “Mây trắng còn bay” còn thể hiện ở lối trần thuật chân thực, giàu chi tiết mà vẫn đậm chất biểu tượng. Khói nhang nhẹ nhàng lan tỏa trong khoang máy bay giữa tầng mây thăm thẳm trở thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc: nó kết nối trời và đất, quá khứ và hiện tại, đồng thời thắp sáng tình mẫu tử thiêng liêng. Hình ảnh “mây trắng còn bay” vừa là hiện thực khách quan vừa là ẩn dụ cho ký ức chiến tranh vẫn còn đó, chưa bao giờ tan biến. Qua thủ pháp ấy, Bảo Ninh đã nâng câu chuyện đời thường thành một ám ảnh nghệ thuật, khiến người đọc không thể dửng dưng.

☁️ Từ góc độ lí luận văn học, có thể thấy tác phẩm mang đậm cảm hứng nhân đạo và cảm hứng hậu chiến. Nhà văn không đi sâu vào miêu tả trận mạc, mà tập trung phản ánh di chứng chiến tranh trong đời sống con người. Đúng như M. Gorki từng khẳng định: “Văn học là nhân học”, tác phẩm của Bảo Ninh giúp ta nhận ra giá trị con người trong khổ đau, thức tỉnh lương tri và khơi gợi tình thương. Bằng việc khắc họa hình tượng bà mẹ già, nhà văn đã biến nỗi đau riêng thành biểu tượng cho sức chịu đựng, lòng thủy chung và sự bất tử của tình mẫu tử Việt Nam.

☁️ Có thể kết luận rằng, “Mây trắng còn bay” của Bảo Ninh là một truyện ngắn giàu ám ảnh và chan chứa nhân văn. Với tình huống độc đáo, hình tượng giàu sức gợi và nghệ thuật trần thuật tinh tế, tác phẩm không chỉ khắc họa nỗi đau triền miên của người mẹ mất con mà còn gửi gắm lời nhắc nhở sâu xa: chiến tranh đã qua đi nhưng di chứng của nó vẫn còn đó trong từng phận người. Đọc truyện, ta thêm thấm thía giá trị của sự hi sinh, để từ đó biết sống nhân ái hơn, trân trọng quá khứ và có trách nhiệm gìn giữ hòa bình. Như Belinski từng khẳng định: “Văn học là nhân học”, qua “Mây trắng còn bay”, mỗi chúng ta được nhắc nhớ phải bồi đắp tình yêu thương và lòng biết ơn để quá khứ không chìm khuất mà trở thành nguồn sáng cho hiện tại và tương lai.

Cảm ơn các em đã dành thời gian đón đọc bài viết của cô Diệu Thu. Hi vọng rằng những kiến thức này sẽ giúp các em thêm yêu thích môn văn hơn. Nếu thấy bài viết ý nghĩa và hữu ích, đừng quên chia sẻ với bạn bè để mọi người cùng học hỏi và khám phá thêm những điều thú vị từ văn học nhé!

Trung tâm luyện thi văn cô Diệu Thu hiện có các lớp văn Online từ lớp 6 đến lớp 12, được giảng dạy bởi đội ngũ Thạc sĩ và Giáo viên giỏi với nhiều năm kinh nghiệm. Phương pháp giảng dạy độc đáo bằng công thức sẽ giúp các em dễ dàng nắm vững kiến thức và yêu thích môn văn hơn. Rất mong được đồng hành cùng các em trên hành trình học tập và phát triển kỹ năng văn học!

Liên hệ: Cô giáo Lê Trần Diệu Thu – Thạc sĩ lý luận và Phương pháp giảng dạy Bộ môn Ngữ văn – 0973602995

#nguvan #vanhoc #hocvanbangcongthuc #cogiaodieuthu

Website: https://letrandieuthu.com/